Quản lý màu sắc trong in ấn

Quản lý màu sắc trong in ấn

1. VIỆC QUẢN LÝ MÀU LÀ GÌ?
Quản lý màu liên quan đến những từ mới gặp phải trong lĩnh vực xuất bản các ấn phẩm màu bằng máy vi tính. Thực chất nó là gì? Phải chăng những người tiếp thị giỏichỉ đưa ra những vấn đề mới để bán sản phẩm của họ hay là thực sự cần thiết đến việc quản lý màu?

Những người sử dụng thiết bị in lại với hệ thống thông dụng không nhận thấy sự cần thiết phải giải quyết việc quản lý màu. Trước đây các hệ thống in báo độc lập với nhau. Phần cứng và phần mềm được người bán chọn cẩn thận. Người mua hệ thống in không thể chọn được từ những thiết bị khác nhau scanner, monitor hay các thiết bị xuất, các phần mềm được chế tạo từ các công ty khác nhau. Bởi vì các hệ thống độc lập với nhau, do đó còn quá sớm để người bán và người sử dụng hiểu được phải làm gì.

in-tui-ni-long-gia-re-hcm

Mọi việc đã thay đổi. Chúng ta đang sống trong những thế giới cuả phần mềm và những hệ thống mềm dẻo (có thể liên kết với nhau ). Vấn đề đặt ra cho ngừơi làm và người sử dụng là cung cấp sự phù hợp như là có những hệ thống độc lập nhưng sử dụng phần cứng và phần mềm khác nhau một cách rộng rãi.

Trung bình những người sử dụng máy tính và các thiết bị in màu thì việc in ra không giống với trên màn hình hiển thị là một vấn đề là do việc thiếu hệ thống quản lý màu. Những người sử dụng máy tính cho in ấn có sự định hướng về việc in ra giống với những gì có trên màn hình hơn là những người phục chế dựa trên kinh nghiệm và kỹ năng.
Những người sử dụng DTP đã tin rằng những gì hiện lên trên màn hình máy tính đều sẽ được in ra. Ngày nay, điều này đã trở thành sự thật cho các loại chữ, kiểu chữ và việc trình bày.

Nhưng màu sắc in ra giống với màu thực tế là một khoảng cách khá xa. Mỗi hệ thống màu đặc trưng trên máy tính cá nhân không cung cấp thiết bị đo giá trị màu và việc quản lý giữa các thiết bị phụ thuộc vào không gian màu của từng thiết bị đó. Đó là lý do tại sao một bức ảnh màu hầu hết là khác nhau trên mỗi thiết bị.
Nói cách khác, xuất bản điện tử theo hướng đạt được màu giống nhau trên các thiết bị đang phát triển mạnh mẽ. Người sử dụng muốn đầu tư vào một hệ thống mở để có thể dễ dàng nối vào mạng và các máy chủ được nối với nhau qua việc sử dụng những dạng dữ liệu chuẩn và dễ dàng nâng cáp, và cuối cùng cho phép việc liên kết với các máy khác tốt hơn.
Nhưng vẫn chưa có một hệ thống quản lý chung để liên kết mọi thứ với nhau và xa hơn là vấn đề về màu sắc.

2. VẤN ĐỀ TIÊU CHUẨN HÓA
Vấn đề cơ bản là các không gian màu được sử dụng từ trước đến nay cho việc phục chế màu không được tiêu chuẩn hóa. Các giá trị màu RGB đặt biệt thu nhận từ máy quét được hiển thị khác với các giá trị RGB trên màn hình và cũng khác với giá trị CMYK cần cho việc xuất ra để in ấn.

Không có một chuẩn giống nhau trong hệ màu của RGB và cũng không đối với CMYK. Các hệ thống quản lý hiển thị màu trên mỗi màn hình là khác nhau, mỗi scanner có các thuộc tính thiết bị riêng của nó. Hệ màu CMYK cũng vậy. Tại Châu âu, có một loại tiêu chuẩn màu cho in offset, nhưng không dùng cho tạp chí.
Ở Mỹ thì có SWOP (Specification for Web Offset Publication) là một tiêu chuẩn cho các màu trong in thử, nhưng chính SWOP cũng không định nghĩa rõ ràng lắm và nếu bạn nghiên cứu sâu hơn, không những bạn sẽ thấy chuẩn in ấn ở Canada rất giống với SWOP , nhưng vẫ có sự khác biệt!

Ở Nhật cũng vậy, có một số tiêu chuẩn in khác nhau tùy thuộc vào loại mực in.
Ngay cả khi có một tiêu chuẩn chung cho thế giới trong việc in offset, như vậy thì còn in ống đồng, in flexo và đối với in 6 màu và 7 màu thì như thế nào? Điều này cũng được lưu ý hơn bởi những người bán máy in.
Có hàng trăm khoảng không gian màu CMYK khác nhau, nhưng không có một tiêu chuẩn quốc tế nào cả. RGB cũng như CMYK không phải là tiêu chuẩn, cả hai phụ thuộc vào thiết bị, và cả hai hệ màu cũng chỉ là một phần của toàn bộ không gian màu mà mắt ta nhìn thấy được.

3. KHOẢNG PHỤC CHẾ MÀU
Các khoảng không gian màu này không chỉ được định nghĩa theo những cách khác nhau với việc chú trọng đến hệ thống tọa độ của chúng, kích thước của các khoảng không gian màu phục chế được của chúng cũng rất khác biệt. Nói chung, thiết bị phụ thuộc vào khoảng không gian màu CMYK thì nhỏ hơn nhiều so với các thiết bị có khoảng không gian màu RGB.

Bạn không muốn mất những thông tin chi tiết của hình ảnh khi chuyển một ảnh sang khoảng không gian màu khác. Vì vậy, cái mà chúng ta yêu cầu được gọi là ánh xạ của khoảng phục chế. Các màu nằm ngoài khoảng phục chế của một không gian màu khác, chúng phải được kéo về sao cho nằm trong khoảng phục chế của không gian màu đó. Điều này được thực hiện theo cách sao cho bảo đảm sự khác biệt so với màu gốc là tối thiểu.

Mặc dầu khoảng không gian màu RGB rộng hơn khoảng không gian màu CMYK, nhưng còn có những vùng trong CMYK không hiển thiị trong RGB. Nói cách khác, có một vài màu in được nhưng không biểu thị được trên màn hình (ví dụ màu sán và màu cyan nguyên chất). Trong không gian màu co bản RGB, nhữnh màu này không hiển thị trong file ảnh, vậy thì làm thế nào mà chúng ta có thể in ra được? Điều này có thể là không quan trọng nếu bạn chỉ muốn tạo ra những bức tranh giải trí, nhưng nếu là một màu đặc biệt hay là một màu pha có sẵn trong bảng màu cần phải được phục chế – ví dụ như trong catalogue vải – điều này trở nên quan trọng.
Nhiều chương trình phần mềm về màu trong việc xuất bản bằng máy vi tính được hiển thị trên màn hình RGB lý do đơn giản là tránh được việc tính tóan về sự thay đổi cường độ màu.

4. TÁC VỤ QUẢN LÝ MÀU
Các tác vụ về quản lý màu được đòi hỏi ngày nay là gì?
Chúng ta cần việc chuyển đổi giữa các khoảng không gian màu, kể cả việc tách ra thành CMYK, cho một phạm vi rộng lớn của thiết bị và trong quá trình in. Việc quản lý màu cũng phải cho phép việc ánh xạ màu. Dĩ nhiên, việc in thử và việc hiển thị trên màn hình là những yêu cầu thêm vào. Việc in thử phải mô phỏng được kết quả cuối cùng trên thiết bị mà nó không phải là thiết bị được dùng để in ra sau cùng.

Sự khác nhau giữa in sản lượng và in thử là: in sản lượng thì mỗi lượt in một màu mực được truyền xuống giấy in với đầy đủ thông tin về chi tiết của màu đó, trong khi đối với in thử bạn phải thực hiện hai quá trình cùng một lúc:Đầu tiên bạn phải chuyển hình ảnh đến không gian màu cuối cùng, sau đó bạn minh họa kết quả bằng không gian màu của thiết bị in thử. Nguyên tắc này không có giá trị đối với việc in thử trên màn hình.

5. VIỆC CHUYỂN ĐỔI MÀU
Giả sử chúng ta có một số thiết bị xuất nhập dữ liệu như máy quét, máy in thử, đầu ghi và hệ thống in, bạn muốn quản lý chúng bằng hệ thống quản lý màu. Neu61u bạn làm việc này với sự giúp đỡ của việc chuyển đổi màu từ thiết bị này sang thiết bị khác, bạn sẽ phải kết nối mỗi thiết bị nhập với một thiết bị xuất. Điều này dẫn đến một số rất lớn các quá trình xử lý chuyển đổi giữa các thiết bị.

Và giả sử rằng một vài người phải làm công việc là kết nối thêm chỉ một thiết bị mới vào hệ thống này. Khi đó, bạn sẽ phải tạo nên một số những bảng chuyển đổi mới bằng với số lượng thiết bị xuất và các quá trình in. Ví dụ này cho thấy việc chuyển từ thiết bị này sang thiết bị khác là không thích hợp cho hệ thống quản lý màu.
Thay vào việc chuyển đổi từ thiết bị này sang thiết bị khác,bạn có thể dùng một khoảng không gian màu trung gian, từ đó bạn có thể chuyển đổi đến tất cả những khoảng không gian màu khác.

Sơ đồ này có thể làm cho việc quản lý màu dễ dàng hơn trong việc xử lý, và cũng dễ dàng và nhanh hơn trong việc mở rộng hệ thống.
Có một vài yêu cầu thiết yếu cho khoảng không gian màu trung gian này.Nếu yêu cầu đó không được đáp ứng, hệ thống sẽ không làm việc hoặc dẫn đến chất lượng có mức độ không thể chấp nhận được.
Không gian màu tổng quát cho việc quản lý màu phải là :
– Thứ 1:Thiết bị độc lập có thể nối được với những thiết bị cần thiết khác, kể cả những thiết bị được sản xuất trong tương lai.
-Thứ 2:Bảng màu này phải được tiêu chuẩn hóa một cách rõ ràng trên toàn thế giới. Việc quản lý màu có thể được sử dụng ở mọi nước.
Cuối cùng tối thiểu khoảng không gian màu yêu cầu phải cókhoảng phục chế màu ở mức tối đa. Nếu không thì bạn có thể mất các chi tiết hình ảnh và những không tin màu sau khi chuyển đổi màu.

6. KHOẢNG KHÔNG GIAN MÀU CIE LAB
Các thiết bị phụ thuộc vào khoảng không gian màuRGB và CMYK không được sử dụng cho mục đích quản lý màu đã được đề cập.

Chỉ có tiêu chuẩn màu CIE là đã đáp ứng những yêu cầu. Tiêu chuẩn CIE đã được công nhận bởi ISO, đây chính là điều mà tại sao tiêu chuẩn này là tiêu chuẩn mở. Các đơn vị của bảng màu CIE không những được tiêu chuẩn hóa mà còn có thể đáp ứng độc lập với mọi người, mọi thiết bị và ngay cả những phổ màu hoàn chỉnh.
Tất cả những màu sắc mà con người trông thấy đã được định nghĩa trong bảng màu CIE.
Ta hãy xem xét một cách chi tiết. Vào năm 1931, CIE tại Paris đã định nghĩa không gian màu XYZ trên những màu sắc con người nhận thấy được.

Năm 1976, CIE đã đưa ra LVV và LAB. Mục đích là tạo ra một thiết bị đo sự tuyến tính thấy được trong không gian màu. Từ đây, trong thực tế, tất cả các thiết bị đo màu điều dựa vào CIELAB.

CIELAB là khoảng không gian màu tuyến tính phụ thuộc vào sự cảm nhận màu của con người. Sự khác nhau nhỏ nhất của màu mà mắt có thể thấy được được định nghĩa là 1 đơn vị E . Nếu bạn đo một giá trị lớn hơn E bạn có thể chắc chắn rằng có thể thấy được sự khác nhau. Nếu kết quả nhỏ hơn 1 E, sự khác biệt về màu sắc là kông thể thấy được đối với người bình thường. Mẫu không gian màu CIELAB hoàn chỉnh là các khoảng không gian màu bằng nhau bởi các giá trị E.

Kết quả là sự thay đổi màu ở một mức nào đó sẽ làm cho mắt người không thể phân biệt được so với màu gốc. Nguyên tắc này là duy nhất và thật sự cho phép bạn chỉnh sửa màu theo trực giác
May mắn là đã có một dạng dữ liệu,được định nhĩa bởi Aldus , dạng dữ liệu này cho phép việc sử dụng không gian màu CIELAB trên môi trường làm việc của máy tính, đó là định dạng TIFF LAB.

Vì vậy, khoảng không gian màu trung gian được chọn là CIELAB, CIELAB cho phép bạn xây dựng những hệ thống quản lý màu bao gồm tất cả các thiết bị xuất nhập.
CIELAB được sử dụng toàn cầu và cũng thích hợp cho những thiết bị nhận tín hiệu không phải từ máy quét. Ngày nay, mọi người nói về photo CD. Photo CD dựa trong một khoảng không gian màu video, đó là YCC. Sự thuận lợi của YCC là đã được tiêu chẩn hóa rất tốt, có thể dễ dàng chuyển đổi từ YCC vào CIELAB.Chắc chắn sẽ có yêu cầu để có thể in các hình ảnh từ Photo CD trên các tài liệu in. CIELAB có thể đáp ứng cơ hội phát triển cho mục đích này.

CIELAB cũng đã mở ra một hướng mới cho tương lai. Adobe TM và OEMs của nó đang bắt đầu với độ phân giải cao được hỗ trợ bởi PostScript TM level 2. PostScrip level 2 hỗ trợ cho việc chuyển đổi giữa các không gian màu . Nó sẽ có thể có khả năng gởi dữ liệu màu từ các thiết bị độc lập trực tiếp tới Level 2 RIP. RIP tự bản thân sẽ cẩn thận xem xét cho việc chuyển đổi màu thích hợp.
Cho đến bây giờ, khẩu hiệu của Adobe cho các thiết bị mô tả trang độc lập chỉ đúng cho hai màu trắng và đen,không cho màu.

7. THIẾT LẬP THÔNG SỐ CHO THIẾT BỊ
LinoColor luôn cung cấp các thiết lập cho tất cả các thiết bị nhập và xuất dữ liệu. Hệ thống ColorPilot bao gồm khâu thiết lập các giá trị màu chuẩnbảo đảm duy trì các màu sắctrong quá trình xử lýqua các thiết bị như màn hình và máy quét.

Thêm vào đó, các nhà kỹ thuật có thể canh chỉnh các hệ thống trên thiết bị xuất ngay tại chỗ tùy điều kiện ở từng nơi. Các vật liệu phim, thuốc rửa và những dung dịch hóa chất cho từng khách hàng đều khác nhau.
Việc thiết lập các giá trị cho hệ thống xuất cũng có thể được tách ra ngoài bởi người sử dụng, do linoType-Hell cung cấp các dụng cụ tinh vi và sử dụng dễ dàng cho việc canh chỉnh như “Các tiện ích của Lino” và “Các công cụ cho sản phẩm”,các công cụ trên được tặng kèm theo trên hệ thống xuất dữ liệu.

8. LINOCOLOR VÀ VIỆC QUẢN LÝ MÀU
Thêm vào việc thiết lập các thông số canh chỉnh, Lino Color còn chứa một hệ thống quản lý màu. Nói chung LinoColor nhận dữ liệu từ máy quét và chuyển chúng vào không gian màu CIELAB cho các quá trình sau này. Đối với hiển thị màn hình, Lino Color chuyển CIELAB vào không gian màuRGB riêng trên màn hình. Đối với việc xuất dữ liệu, một sự chuyển đổi từ CIELAB vào không gian màu riêng CMYK cho in ấn được thực hiện.

Tuy nhiên, đôi khi một quá trình chuyển đổi không được hữu hiệu.Để tạo ra việc hiển thị trên màn hình RGB, Lino Color đầu tiên chuyển dữ liệu tới không gian màu CMYK và sau đó đến không gian màu RGB của màn hình
Các nguyên tắc cơ bản cũng giống cho việc in thử các dữ liệu hình ảnh trên máy in màu. Trong trường hợp này,hai sơ đồ in CMYK khác nhau được kết hợp để mô phỏng kết quả xuất cuối cùng trên máy in màu.

Ngày nay, hệ thống quản lý màu LinoColor cung cấp cho 5 loại máy quét và 2 loại màn hình khác nhau, 3 máy in màu với cả loại mực có sáp và cho việc nhuộm bằng quá trình bay hơi, 26 quá trình xử lý in; bao gồm các chuẩn cho các lục địa khác nhau, bao gồm các sự biến đổi cho GCR và UCR cũng như các qui trình in cho báo chí. Số lượng các qui trình in được mở rộng từng bước.
Một công cụ mà cho phép người sử dụng tạo mới và sửa đổi các quá trình sẵn có sắp được đưa ra.

9. VIỆC THỰC HIỆN
Vấn đề làm thế nào bạn có thể xử lý tất cả các việc chuyển đổi phức tạp này với một tốc độ có thể chấp nhận được? Hệ điều hành Macintosh không chuyên môn hóa về việc tính toán màu này.

Việc chuyển đổi giữa các không gian màu dựa trên các biểu đồ chuyển đổi là một công việc tính toán phức tạp. Nếu bạn chỉ dựa vào phần mềm bạn chỉ có thể chờ một việc chuyển đổi với tốc độ rất chậm. Linotype-Hell đã phát triển một card Nubus, nó được gắn vào mỗi máy Macintosh để cung cấp việc tính toán màu với tốc độ cao.
Loại MacCTU Color Transformation Unit (đơn vị vận chuyển màu) không chỉ là một board mạch để gia tốc hay là một thiết bị thêm vào để tăng tốc độ xử lý, mà là một thiết bị phần cứng chuyên dụng Macintosh. Kỹ thuật ASIC của MacCTU là một ứng dụng xử lý đặt biệt mà đã được tối ưu hóa cho quá trình chuyển đổi màu.

Mac CTU là phần cứng cơ bản cho phần mềm LinoColor. MacCTU được xây dựng cùng một kỹ thuật đã được sử dụng trong các loại máy quét dạng trống đắt tiến trong nhiều năm.
Sự khác biệt: MacCTU bao gồm chỉ một board mac5h NuBus, trong khi trái lại, những máy tính màu đầu tiên ở các máy quét tín hiệu tương tự sử dụng khoảng 20 board mạch trong một hộp lớn đặc biệt.

Không chỉ phần cứng mà còn phần mềm được sử dụng để làm tăng tốc độ chuyển đổi màu. Lino Color đã học hỏi được từ những họ hàng đắt tiền của nó, không chỉ để nhanh, mà thêm vào, còn tiết kiệm thời gian bằng cách kết nối ngững biểu đồ tính toán khác nhau mà thành một. Ví dụ, một cuộc kiểm tra đã cho thấy rằng việc kết hợp tính toán của ba quá trình khác nhauvề hiệu chỉnh màu thì nhanh hơn 8 giây so với mỗi quá trình hiệu chỉnh màu được thực hiện riêng rẻ. Các phần mềm khác mà chúng tôi so sánh trong quá trình kiểm tra đều làm tăng thêm thời gian cho ba quá trình chỉnh sửa màu và thậm chí làm tăng tổng thời gian xử lý.

10. SỰ CẢM NHẬN MÀU CỦA CON NGƯỜI
CIELAB đưa ra hai thuận lợi chính. Trước tiên nó là một nền tảng cơ bản cho việc quản lý màu và thứ hai là nó giúp bạn tạo giao diện cho người sử dụng một cách linh hoạt.

Ảnh của một sự pha trộn về màu như Red, Green, Blue. Cả trí óc con người bình thường cũng không nhận ra được nếu nó không phải là do kinh nghiệm trong đầu ta có sẵn – tách một màu cho sẵn thành các thành phần gồm Cyan, Magenta, Yellow và Black.

Bạn phân biệt được điều gì khi bạn thấy màu sắc, là độ sáng, là độ tinh khiết hay độ bão hòa của một màu, và tông màu. Có ba thông số về độ sáng, độ bão hòa màu và tông màu – từ sự nhận biết màu sắc của con nguời.
Điều thuận lợi của CIELAB là tương đối dễ dàng để tách ra chính xác ba thông số từ không gian màu CIELAB. Vì vậy chương trình LinoType-Hell có thể xây dựng nên một giao diện màu mới cho người sử dụng – LCH (Luminance, chroma, hue) – nó làm cho người mới sử dụng dễ dàng điều chỉnh màu sắc và sau cùng là đầu tư vào màu sắc.

Rate this post

Leave a Comment

Your email address will not be published.